Trước khi vào vấn đề chính ta hãy tìm hiểu xem phục hưng là gì ?
Phục Hưng ( Renaissance ) là một phong trào văn hóa thường được xem là bao gồm giai đoạn từ thế kỳ XV đến thế kỷ XVII, khởi đầu tại nước Ý (Italy) vào Hậu kỳ Trung Đại, sau đó lan rộng ra phần còn lại của Châu Âu trên những quy mô và mức độ khác nhau. Người ta cũng dùng từ Phục Hưng để chỉ, một cách không nhất quán, thời kỳ lịch sử diễn ra phong trào văn hóa nói trên.
Phục Hưng bao hàm sự nở rộ các nền văn học tiếng Latinh cũng như các tiếng dân tộc, bắt đầu từ sự phục hồi việc nghiên cứu các tư liệu cổ điển, sự phát triển của phép phối cảnh tuyến tính và các kỹ thuật nhằm biểu diễn hiện thực tự nhiên hơn trong mỹ thuật, và một cuộc cải cách giáo dục tiệm tiến nhưng phổ cập. Các học giả và nghệ sĩ thời Phục hưng cũng được gọi là những người theo chủ nghĩa nhân văn...
Đầu tiên chúng ta sẽ đi đến với sự ra đời của triết học Tây Âu thời Phục Hưng:
- Thời Phục hưng ở tây Âu gồm hai thế kỷ XV - XVI; phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành; phân hoá giai cấp ngày càng rõ; vai trò kinh tế, xã hội của các giai cấp khác nhau đã tạo nên mâu thuẫn giai cấp.
- Những phát kiến địa lý (Côlông, Magienlăng) tạo điều kiện cho kinh tế thương mại phát triển; các phát minh khoa học của Côpécníc, Brunô, Galilê đem lại vị trí, vai trò mới của con người.
1. Tư tưởng triết học về tự nhiên ở Tây Âu thời Phục Hưng:
2. Tư tưởng triết học về con người ở Tây Âu thời Phục hưng
3. Tư tưởng triết học về chính trị và xã hội ở Tây Âu thời Phục hưng
- Từ chủ nghĩa cá nhân, thời Phục hưng coi xã hội là tổng số cá nhân riêng rẽ.
- Thí nghiệm xây dựng nhà nước không phụ thuộc vào Nhà thờ.
- Xuất hiện những học thuyết tổ chức xã hội cộng sản không tưởng, dựa vào Kinh thánh để yêu cầu xã hội hoá tài sản (Morơ, Campanenla...).
4. Đặc điểm cơ bản
4.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của triết học Tây Âu thời Phục hưng .
Thời kỳ phục hưng và cận đại ở các nước phương tây là hai thời kỳ gắn bó
chặt chẽ với nhau, đều nằm trong thời kỳ quá độ từ xã hội phông kiến lên xã hội
tư bản.Tuy nhiên, mỗi thời kỳ như vậy lại có nét độc đáo riêng của nó. Thời kì
Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến
sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả
các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này.
4.1.A. Về kinh tế.
Khi bóng đêm của đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nền văn minh công nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyển sang thời kỳ phục hưng, thời đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy La đã bị lãng quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu. Xét về bản chất kinh tế, thời kỳ phục hưng ở các nước tây âu đây là thời kỳ phục hồi và phát triển, phương thức sản xuất phong kiến đã trở nên lỗi thời phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước hình thành. Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng. Người nông dân bị đuổi ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Các công trường thủ công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hội phong kiến. Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản; trong khi người nông dân do không còn ruộng đất phải ra thành phố kiếm kế sinh nhai bằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp vô sản sau này.
Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó đã bước vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ công trào dâng khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không chỉ đòi xoá bỏ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con đường phát triển theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết học. Thế giới quan của giai cấp tư sản thể hiện dưới hình thức duy vật và vô thần này càng rõ nét. Nhiều công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học, kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng chế ra máy kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người có thể sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng cường, nhờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... thi nhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu thụ hàng hoá.Những phát kiến địa lý tìm đường ra châu mỹ và đương hang hải sang ấn độ và Trung quốc qua Châu phi đã mở rộng giao lưu hang hóa giữa các nước giữa đông và tây. Nhờ đó sản xuất và thương nghiệp phát triển.
4.1.B. Về xã hội:
Đồng thời với sự phát
triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân
hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công
trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn... Vai trò và vị trí của họ trong kinh
tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị,
trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào lực lượng
lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội
trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ
phong kiến đang suy tàn. Mâu thuẫn giữa tầng lớp tư sản đang lên với giai cấp địa
chủ phong kiến cũng như cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng phát triển.
4.1.C.Về văn hoá, tư tưởng: